CHƯƠNG 37: LẤY OÁN BÁO ÂN 6
Ấy là một ngày hạ nóng nực, đôi chủ tớ Từ Thanh Viên đã sống ở phường Vĩnh Ninh hơn một tháng. Ban sáng, bị đánh thức bởi mùi thơm ngát nồng nặc của hoa hợp hoan ngoài sân, sau khi tỉnh dậy…
--------------
Ấy là một ngày hạ nóng nực, đôi chủ tớ Từ Thanh Viên đã sống ở phường Vĩnh Ninh hơn một tháng.
Ban sáng, sau khi tỉnh dậy trong mùi thơm ngát nồng nặc của hoa hợp hoan ngoài sân, nàng sẽ tưới nước cho chậu hoa Lương Khâu để lại. Một số chiếc lá của hoa đã khô héo, bây giờ nó chớm nở vài nụ hoa, trông không đẹp mắt lắm. Từ Thanh Viên sầu lo hoa sẽ không nở, nhưng nàng cũng không muốn nuôi hoa bằng máu như Lương Khâu.
Nhóm Lương Khâu được xác định sẽ bị xử chém sau mùa thu, Từ Thanh Viên không bao giờ gặp lại Lương Khâu nữa.
Sau bữa sáng, Từ Thanh Viên và thị nữ gọi xe chở đến chợ Đông.
Sáng sớm sương mù đã tan, các khu vực gần chợ Đông tấp nập dòng người, buôn bán hàng hóa nhộn nhịp. Dưới bóng cây, người ta bày bán các loại hương liệu, dược liệu, lá trà, tơ lụa, cần gì cũng có đủ, nhìn lóa hết cả mắt.
Từ Thanh Viên nhanh nhẹn xuyên qua khu chợ, đến cửa hàng đồ cổ hoàng kim và hiệu sách. Nàng mua một số sách, thi thoảng nhận viết thư hộ kèm tiền nhuận bút; còn Lan Thì làm một vài việc may vá riêng cho nữ tử. Chủ tớ hai người đếm mấy đồng tiền không dư dả gì, sống những ngày nghèo khó, nhưng lại khiến họ cảm nhận được ít nhàn hạ tự do mà họ từng trải qua ở Vân Châu khi xưa.
Chẳng ai tới quấy rầy hai nàng, quan viên Đại lý tự cũng cách xa họ. Đôi khi tỉnh dậy vào sáng sớm, Từ Thanh Viên ngồi ôm chăn, cảm giác mọi thứ như chưa từng thay đổi, như thể cha nàng chưa từng rời đi, Đại lý tự chưa từng đến tìm hai nàng.
Song, khoảnh khắc không thể chạm vào hộp ngọc luôn ở cạnh mình, nàng sẽ nhớ về Yến Khuynh, chàng rời khỏi đã lâu rồi.
Yến Khuynh sẽ tìm được cha nàng sao?
Từ Thanh Viên cũng không biết, liệu mình hy vọng chàng có thể tìm thấy, hay hy vọng chàng không thể tìm thấy nữa.
Buổi trưa hôm ấy, Từ Thanh Viên và Lan Thì đội mũ có mạng che mặt đứng trong hiệu sách, sau khi giao các bức thư mà mình đã viết hộ khách và nhận được vài đồng xu, hai nàng vẫn chưa rời đi. Trong tiệm, hai nàng nhìn tiểu nhị chuyển một chồng sách dày cộp từ nhà kho phía sau ra, chất thành đống trước cửa hiệu sách.
Đây là số lượng lớn thư tịch không được phơi sáng đã lâu, nhiều trang sách bị mất, bị mối mọt gặm nát. Bọn tiểu nhị đổ mồ hôi đầm đìa lần lượt chuyển sách, lớp bụi bám trên sách khiến Lan Thì ho không dứt.
Lan Thì kéo nhẹ tay áo Từ Thanh Viên, hàm ý họ nên nhanh chóng rời đi.
Từ Thanh Viên đứng trên cao, quan sát tiểu nhị chuyển sách hồi lâu. Khi tiểu nhị chuẩn bị đốt sách, rốt cuộc nàng không nhịn được nữa: “Nhiều sách như vậy, đốt hết không tiếc sao?”
Thấy vị này là nữ khách hàng thường xuyên đến mua sách, tiểu nhị kiên nhẫn trả lời: “Nương tử, cô không thấy mớ sách này đã cũ kỹ và đầy mối mọt à? Vốn dĩ chẳng ai chịu mua, giữ lại thì tốn diện tích, chi bằng cứ đốt thôi.”
Từ Thanh Viên nói: “Nếu người nghèo khó vào kinh dự thi, mua ít sách hỏng cũng sẽ giúp ích.”
Tiểu nhị nghĩ thầm, rốt cuộc vẫn là nữ tử, không biết giá cả kỳ thi khảo thí trên thị trường. Nể tình dung mạo mỹ miều của khách hàng nữ này, cậu ta mỉa mai: “Thư sinh nào mà nghèo chứ? Chẳng lẽ nương tử không biết, người có thể đến Trường An tham gia kỳ thi, đều là những lang quân của các thế gia lớn sao? Tôi chưa từng gặp bao nhiêu kẻ nghèo cả… Ở nhà họ sưu tầm cất giữ biết bao thư tịch, vốn không ngó tới mấy tiệm sách nhỏ như chúng tôi đâu.”
Tình cờ ông chủ hiệu sách bước ngang qua, lắc đầu thở dài, vừa nói chuyện với Từ Thanh Viên vừa tự nhủ: “Hiệu sách này ăn không nên làm không ra, tôi đang nghĩ đến việc bán hiệu sách và mở tiệm bánh bao đây, vẫn tốt hơn kiểu kinh doanh bù lỗ như hiện giờ.”
Ánh mắt Từ Thanh Viên lóe lên.
Thấy cả buổi sáng chỉ có một vị khách nữ ghé qua, ông chủ dứt khoát ngồi xuống, phàn nàn với Từ Thanh Viên: “Đang tiến hành khoa cử, tôi cứ tưởng sẽ xuất hiện một vài thư sinh nghèo. Nào ngờ ai cũng là con cháu thế gia, họ lại không hề thiếu sách. Còn mấy quyển thư tịch quý giá khác, làm sao một cửa hiệu nhỏ thế này có được chứ? Chúng tôi đành phải bán truyện truyền kỳ, hay mấy thể loại lãng mạn dành cho các nữ tử khuê các.”
“Nhưng vẫn chung một câu nói... Trong nhà những nữ lang quyền quý biết chữ chứa biết bao nhiêu cuốn sách. Số khách xem loại sách không trưng nổi lên kệ của chúng tôi ít ỏi vô cùng. Người như nương tử đây, thật sự hiếm lắm.”
Không biết tiếp lời ra sao, Từ Thanh Viên bèn ngồi xổm xuống, lục lọi trong chồng thư tịch tiểu nhị sắp đốt, nàng tìm thấy một vài cuốn sách cổ rách nát.
Cách lớp mạng che mặt trắng tinh, nàng ngồi xổm dưới đất, ngẩng đầu bàn luận với ông chủ: “Thật ra mấy quyển sách này vẫn còn ít giá trị, nhiều người sở hữu bộ sưu tập thư tịch lớn cũng chưa chắc có. Chỉ tiếc thay, sách đã cũ nát, nhiều trang hư hỏng... Nếu tôi giúp ông chủ sửa chữa những trang bị mục nát, ông chủ có thể hứa cho tôi cầm sách đi vài ngày không?”
Ông chủ giật mình nhìn nàng đăm đăm, kỳ quái hỏi: “Cô có thể sửa sách cổ? Tôi nghe nói... chỉ mấy học giả lão thành trong nội viện hoàng cung mới có khả năng này.”
Từ Thanh Viên khẽ cười.
Ông chủ vui mừng khôn xiết, nếu có thể phục chế một số cuốn sách, kiếm thêm ít tiền thì tại sao lại không chứ? Ông chủ càng ngạc nhiên hơn, khi nữ tử này nhận ra mấy quyển sách đó, còn không chiếm làm của riêng, thậm chí đề nghị giúp ông ta tu bổ nữa. Hay ông ta đã gặp phải kẻ ngốc rồi?
Trên đời không có nhiều cơ hội gặp được kẻ ngốc như thế đâu.
Ông chủ nhanh chóng quyết định, hẹn với Từ Thanh Viên khi nào nàng sẽ trả lại sách; nếu sách thực sự được phục chế tốt thì sẽ trả bao nhiêu tiền công vân vân. Trong lúc bàn chuyện, ông chủ lén quan sát nữ tử này, thấy nàng toát lên khí chất không tầm thường, lịch sự tao nhã như hoa lan.
Ông chủ ngẫm nghĩ, bèn tặng Từ Thanh Viên thêm mấy cuốn truyện tài tử giai nhân.
Từ Thanh Viên dở khóc dở cười, nghe ông chủ khoe khoang: “Đây chính là thể loại mà các nữ lang quý tộc ưa chuộng đấy, ở mấy nơi bình thường không mua nổi đâu! Tôi tặng miễn phí cho cô mà cô không cần ư?”
Từ Thanh Viên nhỏ nhẹ đáp: “Ông chủ, tôi không thích đọc mấy cuốn này, tôi chỉ muốn tìm một số thư tịch diễn nghĩa của tiền triều các kiểu…”
Ông chủ vỗ ngực: “Đơn giản thôi! Tôi sẽ tìm cho cô, nhưng mấy quyển này cô cứ giữ lại đi.”
Ông chủ kéo tiểu nhị chui vào kho sách phía sau cửa hiệu lục lọi, còn Từ Thanh Viên cúi đầu lật xem mấy quyển truyện ông chủ đưa cho nàng. Nàng mới đọc vài trang, đã thấy nhiều câu từ táo bạo hư hỏng, tranh vẽ sống động như thật, khiến nàng mặt đỏ tai hồng, phải vội vàng đóng sách lại.
Tim nàng đang đập thình thịch, một giọng nói vang lên ở phía sau khiến nàng hoảng sợ: “Cô không biết mua những cuốn sách cổ đó, sẽ tốt hơn so với việc để chúng ở đây sao?”
Từ Thanh Viên quay đầu nhìn, thấy một nữ lang trong chiếc áo lụa vàng xanh bước về phía mình, trên đầu nữ tử đeo đầy ngọc bích lục bảo, trên cổ mang vòng Anh lạc đa sắc, ở dưới mặc váy xếp ly phủ vàng.
Nữ lang mặc áo lụa ăn diện lộng lẫy, nhưng lại không có tôi tớ theo sau. Nàng ta thản nhiên liếc nhìn Từ Thanh Viên, ánh mắt mang nét trong trẻo, tựa ba lớp băng tuyết.
Từ Thanh Viên nhận ra, đây là Công chúa Quảng Ninh Mộ Minh Xu mà nàng từng gặp.
Nàng khuỵu gối định hành lễ, nhưng Công chúa đã giơ tay ngăn nàng.
Mộ Minh Xu bình thản nói: “Trả lời câu hỏi của ta xem.”
Từ Thanh Viên nhẹ nhàng đáp: “Các cuốn sách kia không phải của tôi, tôi có thể phục chế đã là cơ duyên, hà tất phải tước mất cơ hội của người khác chứ?”
Mộ Minh Xu nhìn nàng, mạng che mặt như làn sương mù mênh mông, khiến nàng ta không thể thấy rõ gương mặt nữ tử đằng sau tấm mạng che mặt. Mộ Minh Xu bảo: “Thời điểm tiền triều bị diệt vong, biết bao thư tịch đã thất lạc, vô vàn cổ vật bị hư hỏng. Muốn phát tài, nếu không nắm bắt cơ hội này, về sau sẽ không còn nữa.”
Từ Thanh Viên mỉm cười: “Tôi không muốn phát tài.”
Mộ Minh Xu nhìn nàng đăm đăm một lát, không nhận ra gì, bèn chuyển sang chủ đề khác: “Khi ở Tích Thiện tự, lúc cô giải thích vở ‘Thuyết lương duyên’, rồi nói gì mà ‘ba thước khuê các, một mộng hoa tư’. Ta ngồi ở dưới, đã nghe thấy hết.”
Từ Thanh Viên ngẩn người, hơi xấu hổ: “Tiểu nữ chỉ nói bừa để giải quyết tình trạng khó xử thôi, để… nương tử chê cười rồi.”
Mộ Minh Xu bảo: “Bấy giờ cô ăn nói vớ vẩn, nhưng đến hai lần xử án trong Phật đường sau đó, cô đã hợp tác ăn ý với Yến Thiếu khanh, cũng nói lung tung sao? Nếu không phải Yến Thiếu khanh tiết lộ trước cho cô câu trả lời, ta còn nghĩ cô là nữ tử cực kỳ thông minh, thế gian hiếm thấy đấy.”
“Hiện giờ cô còn tới đây giúp đỡ người khác phục chế sách cổ nữa!”
Mộ Minh Xu cực kỳ nghiêm túc, đặt tay lên vai Từ Thanh Viên, vỗ nhẹ hai lần: “Cô giỏi lắm.”
Ở bên cạnh, thị nữ Lan Thì cảm thấy ngạc nhiên đến lạ. Nương tử được người khác khen ngợi cũng không sao, nương tử vốn đã rất tốt rồi, nhưng nếu được một Công chúa Điện hạ trạc tuổi khen ngợi nghiêm túc như thế, vậy cũng hiếm thấy lắm đấy.
Nghe lời khen của Mộ Minh Xu, Từ Thanh Viên cũng hoang mang khó hiểu, rồi lại âm thầm thẹn thùng. Nàng không nói nên lời, đành phải khuỵu gối hành lễ, nhưng Công chúa Điện hạ đã vươn tay đỡ nàng.
Khen nàng xong, Mộ Minh Xu quan sát hiệu sách, thản nhiên nói chuyện phiếm: “Yến Thiếu khanh điều tra vụ án của phụ thân cô thế nào rồi?”
Từ Thanh Viên ngẩn ra, trong lòng ảm đạm, không ngờ chuyện của cha mình lại nổi tiếng như vậy.
Từ Thanh Viên cẩn thận trả lời: “Tiểu nữ không biết ạ. Yến Thiếu khanh là quan lớn của Đại lý tự, dù điều tra được gì cũng sẽ không để tiểu nữ biết. Song, cả đời cha tiểu nữ luôn liêm chính, tiểu nữ tin ông sẽ không phản quốc.”
Mộ Minh Xu nhếch môi cười giễu cợt.
Nàng ta quay đầu nhìn Từ Thanh Viên: “Cô cũng đáng thương thật, phụ thân mất tích, mẫu thân chưa rõ sống chết, phụ mẫu cô đã bỏ rơi cô. Bất luận kết quả cuối cùng của vụ án này ra sao, cô cũng nên buông bỏ đi, chớ phiền lòng vì nó nữa.”
Từ Thanh Viên sững người hồi lâu.
Từ trước đến nay, nàng luôn thận trọng, không muốn tâm sự sâu sắc với người không thân. Song, lời nói của Mộ Minh Xu nghe chân thành quá đỗi, khiến nàng không hiểu từ lúc nào mình lại thân thiết như vậy với Công chúa Điện hạ.
Từ Thanh Viên hỏi: “Tại sao ngài nói với tôi như thế?”
Mộ Minh Xu cụp mắt: “Trong lòng nhất thời xúc động, đồng bệnh tương liên thôi. Phụ mẫu cô bỏ mặc cô, để một mình cô đến Trường An, chẳng hề nghĩ trong thời cuộc biến hóa khôn lường này, nếu không được ai bảo vệ, cô sẽ bị cắn nuốt thế nào. Gặp được cô, làm ta nhớ đến chính mình.”
“Ta có cha không mẹ, địa vị của ta có vẻ cao quý, nhưng thật ra ta cũng gần giống cô. Đám lang quân mà ngày ngày ta nhìn đầy trên mớ tranh, chính là bằng chứng cho thấy cha ta muốn gả ta đi.”
Cha của Công chúa là đương kim Hoàng đế, sao Từ Thanh Viên dám nói xấu Hoàng đế chứ? Nàng chỉ đành im lặng trầm mặc.
Thậm chí nàng còn thầm hối hận, sợ mình đã nghe thấy điều không nên nghe.
Mộ Minh Xu vẫn bình thản: “Cha ta không ưa ta, phụ thân cô từ bỏ cô. Chung quy cũng như nhau thôi.”
Từ Thanh Viên nhẹ nhàng cởi mũ có mạng che mặt xuống, ôm vào lòng, để lộ gương mặt của nàng.
Từ Thanh Viên dịu dàng nói: “Cha tôi có từ bỏ tôi không, lúc này tôi cũng chưa biết đáp án. Tôi cần phải chờ thêm.”
Đôi mắt của Công chúa Điện hạ nhẹ nhàng sáng lên.
Mộ Minh Xu cười: “Tốt lắm, cô bằng lòng nói thật với ta rồi à? Tuy trông cô kín đáo, nhưng cô thật sự nhanh nhạy, được lòng người khác đấy. Có điều, cô nói không sai, cha mẹ trên đời này, không phải ai cũng giống cha ta không ưa ta… Chí ít ta biết một người, song thân của anh ta thương anh ta lắm.”
Nói đến đây, nàng ta nhíu mày, ra chiều đăm chiêu.
Từ Thanh Viên chớp chớp mắt.
Nhưng Công chúa Điện hạ không nhiều lời nữa, chỉ nhắc tới việc khác: “Vào tháng Sáu, ở Trường An sẽ diễn ra lễ hội ngắm hoa, vừa khéo trước khi ta thành thân, chắc sẽ bị cha ta nhốt ở Trường An. Tóm lại để làm gì đó qua ngày, ta đã đề nghị lập danh sách, tổ chức bữa tiệc ngắm hoa năm nay. Ta mở tiệc ở Phàn Xuyên, đến lúc ấy sẽ đưa cô thiệp mời, cô tới chứ?”
Từ Thanh Viên mỉm cười, khuỵu xuống hành lễ: “Được nương tử ưu ái như vậy, sao tôi dám từ chối?”
Đôi đồng tử đen láy của nàng nhẹ nhàng lóe lên, cặp mắt sáng long lanh ngấn nước nhìn sang, đuôi mắt lấp lánh ánh vàng như một chú bướm. Mộ Minh Xu ngẩn người, thích thú vô cùng, nàng ta cũng bật cười.
Mộ Minh Xu khẳng định, quãng thời gian trước khi mình thành thân, có lẽ sẽ không còn nhàm chán nữa.
--------------
Tại thời điểm này trong năm, Trường An đã bước vào đợt nắng nóng mùa hạ, ở Thục Châu thậm chí còn oi bức hơn.
Nhóm người Yến Khuynh đang đi trên đường núi, ve sầu kêu rả rích, dưới ánh nắng chói chang, ai nấy cũng đầm đìa mồ hôi, trong lòng bức bối nóng bừng.
Chỉ mình Yến Khuynh đỡ hơn. Chàng không sợ nóng, khắp người mát lạnh không đổ mồ hôi, khí chất thanh tao. Ở chốn núi non hùng vĩ cách xa khu dân cư, trông chàng có phần điềm nhiên thư thả hơn. Đoàn người đằng sau lại mệt mỏi thở hổn hển, ánh dương gay gắt khiến tai đám nam tử trở nên chai sạn. Chỉ mỗi Yến Khuynh sẵn sàng lắng nghe tiếng ồn ào của người bên cạnh, chàng không hề tỏ ra thiếu kiên nhẫn.
Người theo cạnh họ là Hiệu úy phủ Thục Châu cử đến. Vị Hiệu úy này toát lên khí chất uy nghi của một quân nhân, cũng đầy cởi mở như một quan văn. Suốt dọc đường, anh ta cứ thao thao bất tuyệt giới thiệu phong cảnh lịch sử của nơi này, khiến mọi người cảm thấy phiền vô cùng:
“Chúng tôi thuộc dòng dõi đạo Kiếm Nam, năm xưa khi Bệ hạ còn chưa lên ngôi, ngài ấy rèn luyện làm quan ở đất Thục, có mối quan hệ khá tốt với chúng tôi. Sau này, trong quá trình đánh đuổi đám Thác Lỗ, quân Thục Châu của chúng tôi cũng góp sức nhiều lắm đấy.”
“Bá tánh ở đây nghèo hơn đôi chút, nhưng kể từ khi tân triều thành lập, nơi này khoác lên bộ mặt mới, mọi thứ cải thiện hơn hẳn. Nếu có người lén lút đến Tây Vực từ đây, cũng có khả năng xảy ra. Song, thường ngày chúng tôi đánh giặc, không phải luôn có thể theo dõi sát sao à? Huống chi, địa hình ở đây hiểm trở, chẳng mấy ai có thể đi qua được…”
Phong Nhược trợn mắt.
Từ khi họ đặt chân vào chốn này, Thứ sử Thục Châu đã phái người đến lấy lòng lang quân, sợ lang quân tự điều tra riêng. Yến Khuynh từ chối lòng tốt của Thứ sử, đến vùng núi biên giới của Đại Ngụy để kiểm tra tình hình. Thứ sử lập tức cử một quan viên nhỏ khéo ăn khéo nói trong quân tới giải thích mọi chuyện suốt dọc đường.
Tuy đang giải thích, nhưng lời nào cũng gắn liền với ý “Nếu xảy ra chuyện gì thật, vậy không hề dính dáng đến chúng tôi”, và “Chúng tôi luyện binh vất vả lắm, chỉ muốn cống hiến cho đất nước thôi”.
Cũng chỉ mỗi Yến Khuynh chịu nghe được, còn các quan viên khác trong Đại lý tự đã sớm phát điên vì mấy lời anh ta nói rồi.
Vị Hiệu úy đang dông dài lê thê kia cũng lặng lẽ quan sát sắc mặt Yến Khuynh, thầm nghĩ: Lang quân này anh tuấn ôn hòa, thoạt nhìn chỉ cần gió thổi qua là ngã, nào ngờ vẫn chịu đựng được nhiều ngày, cũng không hề tỏ ra uể oải ủ rũ.
Quân nhân kiên trì phơi mình dưới nắng gắt trong vài ngày không phải vấn đề gì khó. Nhưng một văn nhân như Yến Khuynh, ấy mà thực sự có thể chịu đựng được môi trường của họ.
Đang hành tẩu trong các ngọn núi, họ thấy một bóng đen xuất hiện chớp nhoáng trước mặt, sau đó truyền đến âm thanh la hét ầm ĩ.
Yến Khuynh dừng mắt lại, Hiệu úy hét lớn một tiếng: “Kẻ nào?!”
Nhóm vệ sĩ đã sớm mệt mỏi, lúc này có việc phải làm, họ phấn chấn lên hẳn, tung người lao tới. Họ trói chặt một đôi phu thê trung niên trong bộ đồ rách rưới, nam tử trông hốc hác, còn nữ tử nhìn xanh xao tiều tụy.
Phu thê quỳ trước mặt họ, Hiệu úy vừa thấy bộ dạng của họ thì hối hận.
Hiệu úy cười xin lỗi: “Thiếu khanh, chỉ là chuyện nhỏ thôi, chúng tôi sẽ tự khắc xử lý, ngài không cần phải lo…”
Thực chất, suốt dọc đường, Yến Khuynh đã nhận ra quân Thục Châu canh phòng nghiêm ngặt thế nào, khiến chàng gần như không thể điều tra được gì. Song, trong cảnh canh gác sát sao như vậy, Từ Cố vẫn có thể rời đi. Yến Khuynh đã tựa hồ khẳng định ắt có nội ứng trong triều.
Tất nhiên người nọ phải quyền cao chức trọng, mới có thể chỉ huy quân Thục Châu.
Mấy ngày qua Yến Khuynh không biểu lộ cảm xúc, nghe Hiệu úy này huyên thuyên không dứt, vì muốn nghe xem anh ta đang đề phòng điều gì. Họ sẽ không thu hoạch được gì từ chuyến đi này, nhiều khả năng họ cũng không tìm thấy bất kỳ manh mối nào về Từ Cố. Thế nhưng, khu vực được phòng thủ chặt chẽ của Thục Châu này đã khiến Yến Khuynh sinh lòng hiếu kỳ.
Chốn này có thứ gì, sao những người này lại sợ hãi trước việc chàng xuất hiện đến thế?
Yến Khuynh kiên nhẫn dịu dàng, không bao giờ để lộ cảm xúc. Nhìn đôi phu thê trung niên quỳ trước mặt, rồi thấy Hiệu úy muốn đưa họ đi, chàng bèn ra tay ngăn cản.
Yến Khuynh hỏi: “Hai người đang tranh cãi việc gì?”
Sắc mặt đôi phu thê vô cảm, cả hai bị quan binh bắt được, không né không tránh, dù bị ép quỳ xuống, họ cũng không hề tỏ ra sợ hãi. Cuộc đời đầy giày xéo đã khiến người ta chết lặng, dẫu Yến Khuynh là quan viên lớn, cũng chẳng liên quan gì đến họ.
Nam tử trả lời: “Tôi và thê tử tôi chạy lên núi. Chúng tôi tranh cãi xem tôi nên làm thổ phỉ, hay nàng ấy nên làm ca kỹ.”
Hiệu úy lạnh lùng nói: “Ngu xuẩn gì đâu, còn chẳng biết xấu hổ. Dám nhắc tới thổ phỉ ca kỹ, làm xằng làm bậy trước mặt Thiếu khanh…”
Yến Khuynh liếc nhìn Hiệu úy.
Phong Nhược bước tới, cười hì hì giữ chặt vai Hiệu úy: “Lão huynh đừng ầm ĩ mà, chúng ta thử nghe xem sao lại xảy ra cớ sự đây nhé.”
Yến Khuynh hỏi đôi phu thê: “Ta không nghĩ trước đây hai vị từng gặp phải chuyện sầu não như vậy. Hay hai người không có đất đai, buộc phải lên núi kiếm sống?”
Hiệu úy cố chịu đau, lớn giọng nói: “Thiếu khanh, chớ nghe chúng kể bậy. Khi triều đình mới được xây dựng, đất đai đã được chia lại cho đám điêu dân này. Lệnh của Tể tướng vẫn còn treo ở nha môn Thục Châu, ai dám từ chối chứ? Năm nay thời tiết nắng nóng, mùa màng không tốt, chúng không chịu cố gắng trồng trọt, kẻ nào cũng vào núi làm cướp…”
Trong đôi phu thê trung niên, nam tử thản nhiên lặng lẽ cười một tiếng, còn người vợ nghẹn ngào rơi lệ:
“Vị quan gia này, ngài đang nói gì vậy? Đất được giao cho chúng tôi đều là đất khô cằn, vốn không thể ra hoa màu được…”
Yến Khuynh bảo: “Theo như ta biết, triều đình quy định, mỗi hộ sẽ được phân chia ruộng đất màu mỡ. Nếu không còn đất thì có thể viết đơn khiếu nại.”
Chàng vừa dứt lời, nam tử kích động cười khẩy: “Sau khi tân triều thành lập, nói dễ nghe lắm, đất đai được chia lại cho chúng tôi theo dân số.”
“Hai huynh đệ nhà tôi bỏ mạng nơi sa trường, theo lý thì nên gạch tên khỏi danh sách và thu hồi đất đai. Song, bên trên không chịu xóa tên họ, bảo huynh đệ tôi chưa chết, ai có thể chứng minh huynh đệ của tôi đã qua đời đây? Giờ thì hay rồi, huynh đệ tôi không còn nữa, không ai làm ruộng, nhưng chúng tôi vẫn phải nộp thuế má.”
“Ngày ngày triều đình thúc giục chúng tôi đòi tiền, nhưng chúng tôi biết đòi tiền ai hả? Chi bằng lên núi làm cướp thì hơn!”
Yến Khuynh chậm rãi bảo: “Theo ta được biết, Tể tướng đã hạ lệnh, nếu bảy phần dân chúng không nộp thuế thì phải báo lên triều đình, người nghèo sẽ được miễn trừ đóng thuế. Chính sách này, chẳng lẽ không được thi hành ở Thục Châu sao?”
Giờ đến lượt Hiệu úy cười khổ: “Thiếu khanh, sao có thể không thi hành chứ? Thục Châu chính là nơi Bệ hạ và Tể tướng từng sống trước đây, sao dám gạt bỏ chính sách nào chứ? Song, mọi người ở Trường An, không rõ khó khăn của chúng tôi. Đám dân nghèo không thể nộp nổi thuế đó, mọi người chỉ cần vung một nét bút miễn trừ, nhưng những hộ giàu có sẽ phải gánh vác phần nợ bị thiếu ấy.”
“Phú hộ bất mãn, quan viên bất bình. Bọn họ, hoặc cả nhà chuyển sang nơi khác, hoặc thuê thêm dân nghèo làm ruộng. Đám điêu dân không lo canh tác tốt đất đai, chúng ném hết cuốc rồi bỏ chạy, còn phải để các thế gia bỏ tiền ra… Một vòng tuần hoàn ác tính, cũng đành như thế thôi.”
Hiệu úy nịnh nọt: “Chi bằng Thiếu khanh trở về Trường An, báo cho triều đình biết nỗi khó xử của chúng tôi?”
Yến Khuynh không trả lời, chỉ dặn Phong Nhược: “Lấy giấy bút ra, ta giúp họ viết mẫu đơn kiện, báo cáo khó khăn của họ với nha môn Thục Châu, đồng thời yêu cầu nha môn địa phương gạch bỏ tên huynh đệ ông ấy.”
Ánh mắt Hiệu úy lóe lên, anh ta cười gượng không nói gì.
Đưa lưng về phía Hiệu úy, Phong Nhược tràn đầy căm phẫn: “Lang quân, thuộc hạ nghĩ chính sách của Tể tướng có vấn đề. Tể tướng ưu ái thế gia, áp bức thường dân, mới dẫn tới tình trạng này.”
Yến Khuynh từ tốn bảo: “Phong Nhược, trên đường chúng ta vào đất Thục, có quan binh địa phương theo cùng. Thời tiết nắng nóng đổ lửa, sao lại đột nhiên xuất hiện một đôi phu thê minh oan với ta? Tuy quả thực họ đã chịu nhiều đau khổ, nhưng rõ ràng đã có kẻ sắp đặt trước, muốn mượn lời ta, người có địa vị ngang hàng Tể tướng.”
“Hơn nữa, ta đã vào triều ba năm, chưa từng nghe nói Thục Châu nợ thuế má gì. Vũng nước ở đây rất sâu, có lẽ đang ẩn giấu một bí mật to lớn.”
Phong Nhược sửng sốt.
Phong Nhược lẩm bẩm: “Thuộc hạ còn tưởng Tể tướng đang lén lút cho đám thế gia đó lợi lộc. Người nào nghe đến sự tình này, cũng sẽ cho rằng Tể tướng đang bày mưu lập kế. Chưa kể, khi chúng ta tới đây, đám quan binh theo sát chúng ta suốt chặng đường, cũng tức là Tể tướng đang giám sát chúng ta. Chẳng lẽ lang quân không ghét Tể tướng sao?”
Yến Khuynh lắc đầu.
Chàng vừa đi trên đường núi, vừa chia nhỏ những chuyện triều chính, chậm rãi giải thích cho Phong Nhược: “Tể tướng xuất thân từ thế gia lớn, đương kim Thánh thượng cũng dựa vào thế gia mới có thể ngồi vững trên ngai vàng. Song, kể từ khi tân triều thành lập tới nay, tuy Tể tướng nghiêm khắc, nhưng quả thực đã ban hành nhiều quốc sách có lợi cho bá tánh.”
“Tuy ta và Tể tướng bất đồng quan điểm lập trường, nhưng sự khác biệt của hai chúng ta chỉ do sở cầu cá nhân không giống nhau, chứ không hề tư lợi vì bản thân. Con đường hướng về tổ quốc của hai ta, như trăm sông đổ về một biển.”
Phong Nhược im lặng một lát.
Phong Nhược như đang trách móc, rồi như lẩm bẩm: “Hiển nhiên, quả thực người không có lòng riêng, bằng không người sẽ không tới nơi khốn khổ này làm quan. Nhưng thuộc hạ vẫn không hiểu Tể tướng… Sở cầu của ông ta và sở cầu của lang quân, có gì khác nhau? Vì sao lang quân cho rằng bao cớ sự tồi tệ này không phải yêu cầu của Tể tướng?”
Yến Khuynh ôn hòa nói: “Việc tranh giành quyền lực đã tồn tại từ thuở xa xưa, nhưng lại mang ý nghĩa khác nhau. Cuộc chiến giữa ta và Tể tướng, bất kể thành bại thế nào, cũng nhằm giải quyết sự việc có thật, không hề vô nghĩa.”
“Điều Tể tướng muốn, chính là thế gia lại quật khởi một lần nữa. Vì thế, ông ta sẽ không để mặc thế gia rơi vào cảnh sụp đổ sa sút như thời tiền triều đâu.”
“Đây không phải kiểu đấu tranh không liên quan đến sinh kế của bá tánh, không giúp ích cho đất nước. Do đó, ta không ghét Tể tướng.”
Phong Nhược nửa hiểu nửa không, bèn hỏi lại lần nữa: “Vậy lang quân, điều người hằng mong cầu là gì?”
- Thoát khỏi địa ngục, gió tanh mưa máu. Người ắt phải có sở cầu của bản thân, mới cam tâm chịu đựng tất thảy chỉ trích, cõng tội trên lưng đi hết chặng đường dài.
Vì lẽ gì mà người bằng lòng kiên nhẫn gồng gánh đây?
--------------
Thành Trường An, trong phủ Tể tướng, Vi Phù đang bái kiến Tể tướng.
Thuật về việc Yến Khuynh đã tới Thục Châu điều tra tung tích của Từ Cố, Vi Phù có phần hổ thẹn. Vì chuyện của Thái tử Tiễn vẫn chưa kết thúc, vụ nghịch tặc ở Tích Thiện tự thì rơi vào cục diện bế tắc sau cái chết của Tống Minh Hà, còn Yến Khuynh đã thoát khỏi khó khăn.
Vi Phù cúi đầu: “Tại học trò vô năng.”
Lâm Thừa đã hơn năm mươi tuổi, sắc mặt uy nghiêm, thần thái khỏe mạnh.
Trong khu vườn ở phủ mình, Lâm Thừa và Vi Phù đang thảo luận chính sự, ông ta lắc đầu: “Dăm ba bằng chứng không rõ của vụ Thái tử Tiễn, vốn dĩ không thể khép tội Yến Thanh Vũ được đâu. Chuyện Yến Thanh Vũ đến Thục Châu luôn khiến ta bất an. Vì cậu ta hành sự bình tĩnh, không để lộ bất cứ dấu vết gì. Cậu ta nói để điều tra Từ Cố, ta chỉ sợ thực chất cậu ta đang tìm hiểu việc khác.”
Ánh mắt Vi Phù hơi lóe lên, y khẽ hỏi: “Thục Châu có gì không thể chạm vào ạ?”
Lâm Thừa chợt quay đầu nhìn y, ánh mắt lạnh buốt sắc bén, trông đầy phán xét.
Vi Phù cúi đầu: “Học trò lỡ lời ạ.”
Y mỉm cười: “May thay Thiếu khanh chỉ một lòng phá án, không tham gia chuyện tranh đấu triều đình.”
Lâm Thừa lạnh lùng mắng: “Đấu đá triều đình, cậu ta chỉ lo thân mình là được chắc? Cậu ta không nhúng tay vào, vốn dĩ đã tỏ rõ lập trường rồi đấy.”
“Thái tử Tiễn đã qua đời từ lâu, mấy lời nói xằng bậy của Tống Minh Hà trước khi chết, ta sẽ không vì chúng mà băn khoăn phải làm thế nào đâu. Chẳng qua Yến Thanh Vũ này, cậu ta khác thầy cậu ta. Tả Minh mơ màng cả ngày, thoạt trông Yến Thanh Vũ cũng trầm lặng kiệm lời, nhưng thật ra đã tỏ tường hết thảy... Giang Hà à, Yến Thanh Vũ đã vào triều ba năm, nhưng ta chưa từng nhìn thấu cậu ta, cũng không biết cậu ta mong muốn điều gì.”
“Nếu không biết người ta cầu mong điều gì, chúng ta sẽ không thể sử dụng họ theo cách chúng ta muốn. Trong lòng ta dâng lên một cảm giác khó tả, rằng cậu ta cực kỳ am hiểu những thủ đoạn trên triều đình. Cậu ta đã nhìn thấu ta, nhưng ta chưa từng nhìn thấu cậu ta.”
“Ví dụ như chúng ta cứ nóng lòng giải quyết vụ án nghịch tặc cho Thái tử Điện hạ, còn cậu ta đã tạm lánh mặt. Một thanh niên mới hai mươi tuổi như thế, quá mức lão luyện rồi…”
Vi Phù nói đùa: “Có lẽ anh ta là Thái tử Tiễn thật chăng?”
Lâm Thừa không khỏi bật cười.
Họ biết rõ điều này là không thể.
Lâm Thừa bất giác cảm khái: “Yến Thanh Vũ không chịu để ta lợi dụng, đến nay vẫn khiến ta tiếc nuối. Ta còn nhớ rõ năm Long Thành thứ hai, lần đầu tiên ta đọc bài thi của cậu ta ở kỳ khảo thí, dù cậu ta không phải học trò ta, ta vẫn không thể không thừa nhận, quả thực văn chương của cậu ta rất hay. Năm ấy đề bài là ‘Quốc gia đi về đâu?’, do ta và Bệ hạ thương thảo…”
Ông ta rơi vào trầm tư, hỏi Vi Phù: “Đề bài năm nay của trò là gì?”
Vi Phù im lặng một lát, trả lời: “Hồi kết của nhân sĩ ạ.”
Lâm Thừa giật mình, không ngờ lần này Lại bộ ra đề như vậy.
Một giọng nói trong trẻo mềm mại của cô nương trẻ truyền vào vườn: “Cha, cha đang tiếp khách à?”
Vi Phù quay đầu nhìn, thấy một thiếu nữ yêu kiều bước ra từ sau Nguyệt môn, trông cô xinh đẹp như hoa.
Đây là con gái của Lâm Thừa, Lâm Vũ Nhược.
--------------
Cách một cánh cửa sổ, Lâm Tư Niên đứng ở hành lang, quan sát cảnh vui vẻ hòa thuận trong vườn, lắng nghe tiếng cười của họ. Hắn phất tay áo rời khỏi, ánh mặt trời chiếu lên khuôn mặt lãnh đạm của hắn.
Phần náo nhiệt thuộc về họ.
Ngăn chặn hắn ở bên ngoài.
Một bóng người xuất hiện, khoác áo choàng đen, trông cao lớn ma quái.
Người này là “A Vân” biến mất đã lâu.
Gã không phải thị nữ bình thường của Phùng Diệc Châu. Trên hành lang dài, gã theo sau Lâm Tư Niên, thích thú quan sát hết mọi chuyện.
Gã là nam tử.
--------------
          